Thứ Hai, 30 tháng 11, 2020

Giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình

 Quan hệ hôn nhân và gia đình là một trong những quan hệ pháp luật phổ biến nhất, khi xảy ra tranh chấp rất khó giải quyết, bởi bên cạnh các yếu tố pháp luật luôn đan xe các yếu tố tình cảm. Trong phạm vi bài viết này, xin đưa ra một số tranh chấp điển hình trong quan hệ hôn nhân và gia đình và hướng giải quyết theo quy định của pháp luật.



Tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn.

Trong quan hệ hôn nhân, bất cứ cặp vợ chồng nào cũng có tài sản chung. Khi xảy ra vấn đề ly hôn, không ít cặp vợ chồng xảy ra mâu thuận lớn khi phân chia tài sản, ai cũng ra sức kể công. Sau đây người viết chỉ xin bàn về tranh chấp tài sản chung trong trường hợp: chồng là người kiếm tiền chính trong gia đình, vợ ở nhà nội trợ và chăm sóc con cái.

Trường hợp này, người chồng mong muốn giành toàn bộ tài sản, không chia tài sản cho vợ, bởi:

Vợ không có công việc, không kiếm ra tiền, chỉ làm việc nhà và trông nom con cái;

Chồng là người duy nhất trong nhà đi làm và mang tiền về;

Các tài sản trong gia đình đều được mua bởi tiền của chồng.

Do đó người chồng cho rằng mình có công sức đóng góp lớn trong việc tạo lập tài sản, người vợ không tạo lập được gì nên không được chia tài sản.

Tuy nhiên dưới góc độ của Luật Hôn nhân và gia đình, mong muốn của người chồng không thể thực hiện được. Bởi Luật xác định: “lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”. Tức là trong gia đình, có vợ/chồng là lao động chính, tạo ra nguồn thu nhập chính và ổn định cho gia đình, người còn lại chỉ làm công việc nội trợ, nuôi dạy và trông nom con cái, luật xác định lao động của hai người là ngang nhau, đều là lao động có thu nhập.

Người vợ chỉ làm việc nội trợ gia đình, nuôi dạy và trông nom con cái là lao động có thu nhập ngang với lao động của người chồng bên ngoài xã hội.

Quy định này xuất phát từ việc không chỉ xem xét quá trình tạo lập tài sản, mà còn ghi nhận công sức duy trì, trông nom, phát triển tài sản. Nếu như người chồng có công trong việc tạo lập tài sản chung, thì người vợ lại có công trong việc duy trì, trông nom, bảo vệ và phát triển tài sản chung. Đôi khi, công lao trong việc duy trì, phát triển tài sản chung lớn hơn công lao trong việc tạo lập ra tài sản.

Vì thế, người chồng không có căn cứ yêu cầu được giữ toàn bộ tài sản chung được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân.

Người chồng chỉ có quyền yêu cầu xem xét công sức đóng góp đối với những tài sản chung có nguồn gốc là tài sản riêng sau đó được chuyển thành tài sản chung vợ chồng.

Tranh chấp quyền nuôi con.

Bên cạnh vấn đề phân chia tài sản chung, tranh chấp quyền nuôi con cũng là dạng tranh chấp trong hầu hết các quan hệ ly hôn bởi cả cha và mẹ đều mong muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con mình. Sau đây người viết chỉ xin bàn về tranh chấp quyền nuôi con trong trường hợp con chung đã đủ 3 tuổi.

Luật hôn nhân và gia đình có quy định: “con dưới 36 tháng tuổi được giao trực tiếp cho mẹ nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác”. Luật chỉ dành quyền ưu tiên nuôi con cho người mẹ khi con chung dưới 3 tuổi. Khi con chung từ đủ 3 tuổi trở lên, nếu có tranh chấp, cha và mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc nuôi dưỡng con. Khi đó, Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp sẽ căn cứ vào các điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con của hai bên cha và mẹ, như sau:

Điều kiện kinh tế: cha và mẹ để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho con cần phải có tài chính. Pháp luật không bắt buộc người trực tiếp nuôi dưỡng con chung phải có năng lực tài chính tốt, cho con cái cuộc sống chất lượng cao, hiện đại, mà chỉ đặt ra yêu cầu cha/mẹ phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho con chung. Mức sống tối thiểu được xác định là những nhu cầu cần và đủ cho lứa tuổi của con và ở mức tối thiểu. Ví dụ: con chung 3 tuổi 6 tháng, ở độ tuổi này có thể xác định được những nhu cầu tối thiểu của con như ăn, uống, vui chơi, học tập. Cha/mẹ phải đáp ứng được tối thiểu những nhu cầu này và đảm bảo cho các nhu cầu của con.

Hiện nay có rất nhiều các cặp cha mẹ có kinh tế tốt, cung cáp cho con một cuộc sống tiện nghi, đầy đủ. Khi xảy ra tranh chấp quyền nuôi con, mỗi bên phải chứng minh về tài chính tốt, đảm bảo cho con cuộc sống tốt hơn phía bên kia có thể làm được. Tuy nhiên, kinh tế tốt chưa phải là điều kiện quyết định quyền nuôi con sẽ thuộc về ai.

Điều kiện tinh thần: có thể kể đến như:

+ Phẩm chất đạo đức của cha/mẹ: người trực tiếp nuôi dưỡng con chung đương nhiên phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, bởi điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của con chung.

+ Điều kiện sức khỏe của cha/mẹ: người trực tiếp nuôi dưỡng con chung phải có sức khỏe đảm bảo cho việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con.

+ Điều kiện công việc và thời gian dành cho con: xem xét đến tính chất công việc, thời gian làm việc và thời gian cha/mẹ có thể dành cho con khi trực tiếp nuôi dưỡng cho con. Có cha/mẹ làm buôn bán ngay tại nhà rất thuận lợi cho việc trực tiếp nuôi dưỡng con. Cũng có những cha/mẹ do tính chất công việc hay phải đi sớm về muộn, phải đi công tác xa, dẫn đến việc không dành thời gian chăm sóc cho con. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc giành quyền nuôi con.

+ Điều kiện môi trường sống: môi trường sống là yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách của con, cha/mẹ khi giành quyền nuôi con phải chứng minh về môi trường sống của con.

+ Và các điều kiện thực tế khác.

Hai điều kiện này xuất phát từ quy định đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con và trên thực tế đã được rất nhiều tòa án áp dụng. Tuy nhiên có nhiều yếu tố khách quan khác vẫn ảnh hưởng đến quyết định Tòa án.

Luật hôn nhân gia đình

luật sư tư vấn tranh chấp

Luật sư tư vấn tranh chấp giỏi

luật tranh chấp quyền nuôi con

quyen nuoi con

Tư vấn tranh chấp tại hà nội

Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài

 Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài như thế nào?

Tranh  chấp thương mại có yếu tố nước ngoài là các hoạt động  bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác trong đó có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.



Tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể này được giải quyết bằng tòa án hoặc trọng tài thương mại, nếu chúng không giải quyết được bằng thương lượng.

Giải quyết tranh chấp bằng tòa án là quyền đương nhiên, các bên tranh chấp không cần phải thỏa thuận. Bên có quyền lợi bị xâm phạm có thể khởi kiện tại tòa án nước mình, tòa án của bên vi phạm hoặc thậm chí tại tòa án của một nước thứ ba, tùy thuộc tòa án của các nước này có thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp cụ thể đó không. Thẩm quyền của tòa án cũng có thể được xác lập bởi thỏa thuận của các bên, nếu pháp luật tố tụng của nước đó chấp nhận thỏa thuận này. Tuy nhiên, quyết định của tòa án nước này muốn được thi hành tại một nước khác thì phải được nước khác đó công nhận. Bởi vậy, thuận tiện nhất là lựa chọn khởi kiện ở nơi mà bản án cũng cần được thi hành. Tòa án công nhận xem xét việc đáp ứng các điều kiện công nhận, nhưng không bao gồm xem xét lại sự việc.

Bên cạnh giải quyết tranh chấp bằng tòa án, hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đặc biệt được ưa chuộng trong hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên, trọng tài chỉ có thẩm quyền nếu được các bên thỏa thuận. Thỏa thuận trọng tài có thể là thỏa thuận trong hợp đồng hoặc trong một văn bản riêng biệt, trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp. Thỏa thuận phải chỉ định một trung tâm trọng tài cụ thể hoặc một hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm, như được các bên tín nhiệm, thủ tục đơn giản, có thể thỏa thuận nơi tiến hành xét xử, nhất là giữ được bí mật và uy tín của các bên do phiên xét xử không công khai. Phán quyết trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp bị tòa án hủy theo thủ tục hủy quyết định trọng tài, trong đó tòa án không xem xét lại sự việc mà chỉ xem xét việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục tố tụng. Phán quyết của trọng tài quốc tế hoặc nước ngoài muốn được thi hành tại một nước khác cũng phải được nước khác đó công nhận. Trong thủ tục công nhận này tòa án cũng không xem xét lại sự việc.

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2020

Một số nội dung quy định trong Luật cạnh tranh sửa đổi

 Ngày 12/06/2018, Luật cạnh tranh số 23/2018/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 12/6/2018 thay thế cho Luật cạnh tranh 2004, gồm 10 Chương và 118 Điều. Luật 2018 đã bãi bỏ, sửa đổi và bổ sung nhiều nội dung mới phù hợp với thực tiễn qua 14 năm thi hành Luật Cạnh tranh 2004, quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam; hành vi cạnh tranh không lành mạnh; tố tụng cạnh tranh; xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh; quản lý nhà nước về cạnh tranh.



Về quản lý nhà nước, Luật Cạnh tranh 2018 trao thẩm quyền cho Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh (trước đây là Bộ Thương mại); quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia trực thuộc Bộ Công thương trên cơ sở tổ chức lại các cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh 2004, bao gồm cơ quan quản lý cạnh tranh (Cục Cạnh tranh và Bảo vệ Người tiêu dùng) và Hội đồng Cạnh tranh. Ủy ban Cạnh tranh quốc gia là một cơ quan vừa thực thi quản lý nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh nhưng cũng đồng thời thực thi hoạt động tố tụng điều tra, xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh.

Một trong những nội dung đáng chú ý, Luật Cạnh tranh 2018 cũng thay đổi cách tiếp cận đối với vấn đế tập trung kinh tế khi bãi bỏ  hành vi tập trung kinh tế ra khỏi khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh và thừa nhận tập trung kinh tế là quyền của doanh nghiệp. Do đó, luật không cấm tập trung kinh tế dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan như quy định tại Luật Cạnh tranh 2004. Ngược lại, Luật Cạnh tranh 2018 chỉ quy định cấm doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế khi hành vi tập trung  kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Thị phần chỉ là một trong các yếu tố được xem xét khi quyết định đồng ý hay không đồng ý một vụ việc tập trung kinh tế. Ủy ban Cạnh tranh quốc gia chịu trách nhiệm đánh giá hành vi tập trung kinh tế dựa theo các tiêu chí quy định tại Điều 31, 32 Luật Cạnh tranh 2018. Tác động tiêu cực vá tích cực đồng thời được đưa ra đánh giá. Nếu vụ việc chỉ có tác động tích cực thì không cản trở. Nếu có cả tác động tích cực lẫn tiêu cực thì Ủy ban có thể vẫn cho phép tiến hành tập trung kinh tế, nhưng kèm theo một số điều kiện để hạn chế tác động tiêu cực. Đây là cách tiếp cận hoàn toàn mới so với quy định của Luật Cạnh tranh 2004 cấm toàn bộ tập trung kinh tế dựa trên thị phần.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 24 Luật Cạnhtranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật Cạnh tranh 2018 hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Trước đây với  Luật Cạnh tranh 2004, khi xác định vị trí của một doanh nghiệp trên thị trường có phải là doanh  nghiệp có vị trí thống lĩnh hay không thì chỉ dựa vào tiêu chí thị phần trên thị trường chiếm trên 30%. Thực tế rất nhiều doanh nghiệp trên thị trường có thị phần chưa tới 30% nhưng vẫn có một sức mạnh thị trường đáng kể và vẫn có thể can thiệp vào thị trường dưới nhiều hình thức. Do đó Luật Cạnh tranh 2018 đã bổ sung thêm yếu tố khác ngoài yếu tố thị phần để xác định doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường, kể cả những doanh nghiệp có thị phần dưới 30% thì cơ quan cạnh tranh sẽ đánh giá xem rằng liệu doanh nghiệp có vị trí sức mạnh thị trường hay không. Pháp luật không cấm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay thậm chí là vị trí độc quyền. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp lạm dụng vị trí đó để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành manh thì hành vi đó sẽ bị cấm. Chính vì vậy việc xác định vị trí của doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp như thế nào trên thị trường là điều kiện tiên quyết để xem xét các hành vi cạnh tranh của họ có bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền bị cấm hay không.

Luât Cạnh tranh 2018 có hiệu lực từ ngày 01/07/2019.


Thứ Năm, 26 tháng 11, 2020

Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ

Có 3 biện pháp để giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ đó là: Biện pháp hình sự; biện pháp dân sự và biện pháp hành chính.



Thông thường, hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý hình sự nếu trước đó đã bị xử lý hành chính. Trong khi đó, ranh giới giữa biện pháp dân sự và biện pháp hành chính lại chưa thật sự rõ ràng, đặc biệt vấn đề những tranh chấp nào được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự và những tranh chấp nào được giải quyết bằng “con đường” hành chính. Hệ quả là, nhiều tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ lẽ ra phải được giải quyết theo thủ tụng tố tụng dân sự nhưng lại giải quyết theo thủ tục hành chính

Quy định không rõ ràng về thẩm quyền dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, các cơ quan đôi khi thực hiện công việc không thuộc thẩm quyền của mình, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ

Người có quyền khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ

Do pháp luật không quy định ai có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, dẫn đến trong thực tế người có quyền khởi kiện đôi khi bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.

Nguyên đơn trong vụ án về quyền sở hữu trí tuệ có thể là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ hoặc một số người có quyền liên quan khác. Cụ thể như sau:

Đối với những tranh chấp về quyền tác giả, những người sau đây có quyền khởi kiện:

– Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;

– Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;

– Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả;

– Người được thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;

– Người có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn; tổ chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát sóng;

– Người có quyền sử dụng hợp pháp tác phẩm thông qua hợp đồng sử dụng tác phẩm;

– Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.

Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, những người sau đây có quyền khởi kiện:

– Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.

– Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí mật kinh doanh.

– Người sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý.

– Người được thừa kế quyền sở hữu công nghiệp.

– Người có quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua hợp đồng li-xăng.

– Người biểu diễn; tổ chức, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; tổ chức phát thanh, truyền hình.

– Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.

Hãy liên hệ công ty luật ANT Lawyers qua hòm thư điện tử luatsu@antlawyers.com hoặc gọi số Hotline để được tư vấn.

 

luật sư tư vấn tranh chấp

Thanh chấp

Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

Tư vấn tranh chấp

Tư vấn tranh chấp tại hà nội

Tư vấn tranh chấp tại Việt nam

 

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2020

Phương thức hòa giải và Hội đồng trọng tài lao động trong việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

 Đầu tiên, về trình tự, thủ tục hòa giải, các tranh chấp lao độngcá nhân phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:



Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;
Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
Giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hòa giải viên lao động nhận được yêu cầu từ bên yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc từ cơ quan quy định tại khoản 3 Điều 181 của Bộ luật lao động 2019 (“BLLĐ”), hòa giải viên lao động phải kết thúc việc hòa giải. Tại phiên họp hòa giải phải có mặt hai bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể ủy quyền cho người khác tham gia phiên họp hòa giải.

Trường hợp  các bên thỏa thuận được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải có chữ ký của các bên tranh chấp và hòa giải viên lao động. Trường hợp các bên không thỏa thuận được, hòa giải viên lao động đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét. Đầu tiên, trường hợp các bên chấp nhận phương án hòa giải thì hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải có chữ ký của các bên tranh chấp và hòa giải viên lao động. Thứ hai, trường hợp phương án hòa giải không được chấp nhận hoặc có bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải không thành. Biên bản hòa giải không thành phải có chữ ký của bên tranh chấp có mặt và hòa giải viên lao động.

Thứ hai về phương thức Hội đồng trọng tài lao động, các trường hợp các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết để giải quyết tranh chấp:
Trường hợp một trong các bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành;
Các trường hợp không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải;
Trường hợp hết thời hạn hòa giải mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải;
Trường hợp hòa giải không thành.

Khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp, các bên không được đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp hết thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu mà Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày Ban trọng tài lao động được thành lập mà Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp một trong các bên không thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết

 

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2020

Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài

 Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài như thế nào?

Tranh  chấp thươngmại có yếu tố nước ngoài là các hoạt động  bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác trong đó có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.



Tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể này được giải quyết bằng tòa án hoặc trọng tài thương mại, nếu chúng không giải quyết được bằng thương lượng.

Giải quyết tranh chấp bằng tòa án là quyền đương nhiên, các bên tranh chấp không cần phải thỏa thuận. Bên có quyền lợi bị xâm phạm có thể khởi kiện tại tòa án nước mình, tòa án của bên vi phạm hoặc thậm chí tại tòa án của một nước thứ ba, tùy thuộc tòa án của các nước này có thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp cụ thể đó không. Thẩm quyền của tòa án cũng có thể được xác lập bởi thỏa thuận của các bên, nếu pháp luật tố tụng của nước đó chấp nhận thỏa thuận này. Tuy nhiên, quyết định của tòa án nước này muốn được thi hành tại một nước khác thì phải được nước khác đó công nhận. Bởi vậy, thuận tiện nhất là lựa chọn khởi kiện ở nơi mà bản án cũng cần được thi hành. Tòa án công nhận xem xét việc đáp ứng các điều kiện công nhận, nhưng không bao gồm xem xét lại sự việc.

Bên cạnh giải quyết tranh chấp bằng tòa án, hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đặc biệt được ưa chuộng trong hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên, trọng tài chỉ có thẩm quyền nếu được các bên thỏa thuận. Thỏa thuận trọng tài có thể là thỏa thuận trong hợp đồng hoặc trong một văn bản riêng biệt, trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp. Thỏa thuận phải chỉ định một trung tâm trọng tài cụ thể hoặc một hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm, như được các bên tín nhiệm, thủ tục đơn giản, có thể thỏa thuận nơi tiến hành xét xử, nhất là giữ được bí mật và uy tín của các bên do phiên xét xử không công khai. Phán quyết trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp bị tòa án hủy theo thủ tục hủy quyết định trọng tài, trong đó tòa án không xem xét lại sự việc mà chỉ xem xét việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục tố tụng. Phán quyết của trọng tài quốc tế hoặc nước ngoài muốn được thi hành tại một nước khác cũng phải được nước khác đó công nhận. Trong thủ tục công nhận này tòa án cũng không xem xét lại sự việc.

Làm sao để Luật sư ANT có thể giúp doanh nghiệp của bạn?

Hãy liên hệ công ty luật ANT Lawyers qua hòm thư  luatsu@antlawyers.com hoặc gọi số Hotline để được tư vấn.

Lợi ích của hòa giải thương mại

 

Lợi ích của hòa giải thương mại là gì?

Quá trình hội nhập với nền kinh tế thị trường đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ tạo ra ngày càng nhiều cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh, hợp tác với quốc tế. Cùng với đó, việc phát sinh tranh chấp là việc không thể tránh khỏi. Với những ưu điểm, đặc biệt là việc bảo mật thông tin theo thỏa thuận của các bên, hòa giải thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế đang ngày càng được các doanh nghiệp ưa chuộng.



Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định 22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2017. Theo đó, việc hòa giải thương mại được các bên thỏa thuận trước, sau hoặc tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp. Phương thức này được dùng để giải quyết giữa các bên trong đó có ít nhất một bên hoạt động thương mại hoặc tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại. Bên cạnh đó, việc tham gia hòa giải của các bên là hoàn toàn tự nguyện và các thông tin về hòa giải sẽ được giữ bí mật theo thỏa thuận của các bên, miễn là các nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật.

Hòa giải thương mại đang dần trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến vì thủ tục đơn giản, linh hoạt, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên đương sự. Các bên có cơ hội lựa chọn một quy trình phù hợp, tránh các thủ tục pháp lý phức tạp. Quy định về việc các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải giúp các bên có thể chọn được một trung gian hòa giải có hiểu biết chuyên môn về vấn đề tranh chấp. Ngoài ra, khi tham gia hòa giải, với tinh thần thiện chí và hợp tác, các bên cũng dễ đạt được thỏa thuận một cách nhanh chóng. Các bên vẫn có thể tiếp tục giữ gìn và phát triển mối quan hệ hợp tác vì lợi ích của hai bên. Nghị định cũng quy định các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải phải được giữ bí mật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.

Luật quy định hai bên có thể tự do lựa chọn hòa giải viên thương mại để giải quyết tranh chấp của mình. Theo Nghị đinh 22/2017/NĐ-CP, hòa giải viên thương mại bao gồm hòa giải viên thương mại vụ việc và hòa giải viên thương mại của tổ chức hòa giải thương mại được các bên lựa chọn hoặc được tổ chức hòa giải thương mại chỉ định theo đề nghị của các bên để hỗ trợ các bên giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định này. Một người là hòa giải viên thương mại phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 7 của Nghị định này. Ngoài các quy định chung về năng lực dân sự theo quy định tại Bộ luật dân sự, hòa giải viên phải có trình độ đại học trở lên và có 2 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực được đào tạo, có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật về vấn đề có liên quan. Thay vì đưa vụ việc của mình ra Tòa án, các bên không thể lường trước được kết quả, thậm chí là không thể giải quyết được, việc lựa chọn một hòa giải viên thương mại có hiểu biết sâu về vấn đề tranh chấp và bề dày kinh nghiệm giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách thuận lợi và nhanh chóng.

Nếu được thực hiện với tinh thần thiện chí, giải quyết các vụ việc bằng hòa giải luôn đem lại hiệu quả cao hơn. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định thời hạn giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có thể mất nhiều năm. Trong khi đó, với việc lựa chọn hòa giải, các bên sẽ mất ít thời gian hơn để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, tranh chấp chắc chắn sẽ được giải quyết bởi sự thỏa thuận của các bên bởi trong quá trình hòa giải, với sự hỗ trợ của hòa giải viên, các bên sẽ có cơ hội được đưa ra quyết định của mình về phương án giải quyết tranh chấp, qua đó cũng tiết kiệm được chi phí đáng kể cho các bên.

Một ưu điểm nữa của phương thức hòa giải là các bên tự quyết định việc giải quyết tranh chấp và có thể biết trước kết quả. Đây là ưu thế nổi trội của phương thức hòa giải so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, vốn khó lường trước được kết quả. Quan trọng là, hòa giải là một quá trình không công khai nên trong quá trình hòa giải tên của các bên tranh chấp không bị tiết lộ ra công chúng, tránh nguy cơ ảnh hưởng đến uy tín kinh doanh của các bên.

Theo Dịch vụ tư vấn môi trường đầu tư của Ngân hàng thế giới, Hướng dẫn của Trung tâm giải quyết tranh chấp thay thế: Hướng dẫn cho các học viên về Thành lập và Quản lý các trung tâm giải quyết tranh chấp thay thế (ADR), giải quyết tranh chấp bằng hòa giải mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả các tổ chức kinh tế. Đối với cá nhân, hòa giải làm giảm nhu cầu thực thi thủ tục tố tụng để đảm bảo một bên tuân thủ theo thỏa thuận, vì các bên tham gia giải quyết thoả thuận đồng ý. Đối với các khu vực kinh tế tư nhân, hòa giải giúp tạo ra một môi trường tốt hơn cho hoạt động kinh doanh. Nó làm giảm chi phí trực tiếp và gián tiếp mà các doanh nghiệp phải gánh chịu trong việc thực thi các hợp đồng và giải quyết các tranh chấp.

Làm sao để ANT Lawyers có thể giúp doanh nghiệp của bạn?

Hãy liên hệ ANT Lawyers qua hòm thư luatsu@antlawyers.com hoặc gọi số Hotline để được tư vấn.

Tư vấn tranh chấp lao động

 

Tranh chấp lao động là gì?

Căn cứ pháp lý

·         Bộ luật Lao động 2012;

·         NĐ 05/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động;

·         NĐ 46/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp lao động;

·         Thông tư 08/2013/TT-BLĐTBXH Hướng dẫn Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2013 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao động về tranh chấp lao động.



Tranh chấp lao động (TCLĐ) là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động.

Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.

Đối với tranh chấp lao động, khi xảy ra tranh chấp trước hết các bên có thể tiến hành thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội.

Tuy nhiên nếu một bên từ chối thương lượng, thương lượng không thành hoặc thương lượng thành mà một bên không thực hiện có thể tiếp hành giải quyết tranh chấp tại cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo yêu cầu của một bên. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết TCLĐ là khác nhau đối với TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể, cụ thể:

Trước hết việc tranh chấp phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải thông qua hòa giải viên lao động. Một bên tranh chấp bằng cách gửi đơn đến Phòng Lao động Thương binh Xã hội nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở hoặc cư trú, sau khi tiếp nhận Phòng Lao động, Thương binh và xã hội sẽ cử hòa giải viên lao động tham gia giải quyết tranh chấp lao động.

Trường hợp hòa giải viên lao động được cử không tổ chức hòa giải trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu, tranh chấp đã được hòa giải nhưng không thành, hòa giải thành nhưng bên người sử dụng lao động không thực hiện những thỏa thuận được ghi trong biên bản hòa giải thành thì các bên có quyền

Đối với TCLĐ cá nhân: yêu cầu Tòa án giải quyết, cụ thể là Tòa án Nhân dân cấp huyện và là TAND nơi bị đơn có trụ sở đối với bị đơn là tổ chức hoặc nơi bị đơn cư trú nếu là cá nhân.

Ngoài ra đối với một số tranh chấp lao động được quy định tại Khoản 1 Điều 201 BLLĐ (như tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải, về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về bồi thường thiệt hại,…), các bên có thể kiện ra tòa ngay mà không phải qua thủ tục hòa giải.

Đối với TCLĐ tập thể về nghĩa vụ: yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện) nơi xảy ra tranh chấp giải quyết. Sau đó, nếu các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động thực hiện hòa giải tranh chấp lao động cá nhân là 06 tháng, với Tòa án là 1 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

Làm sao để ANT Lawyers có thể giúp doanh nghiệp của bạn?

Hãy liên hệ công ty luật ANT Lawyers qua hòm thư  luatsu@antlawyers.com hoặc gọi số Hotline để được tư vấn.

Một số nội dung quy định trong Luật cạnh tranh sửa đổi

 Ngày 12/06/2018, Luật cạnh tranh số 23/2018/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 12/6/2018 thay thế cho Luật cạnh tranh 2004, gồm 10 Chương và 118 Điều. Luật 2018 đã bãi bỏ, sửa đổi và bổ sung nhiều nội dung mới phù hợp với thực tiễn qua 14 năm thi hành Luật Cạnh tranh 2004, quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam; hành vi cạnh tranh không lành mạnh; tố tụng cạnh tranh; xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh; quản lý nhà nước về cạnh tranh.



Về quản lý nhà nước, Luật Cạnh tranh 2018 trao thẩm quyền cho Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh (trước đây là Bộ Thương mại); quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia trực thuộc Bộ Công thương trên cơ sở tổ chức lại các cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh 2004, bao gồm cơ quan quản lý cạnh tranh (Cục Cạnh tranh và Bảo vệ Người tiêu dùng) và Hội đồng Cạnh tranh. Ủy ban Cạnh tranh quốc gia là một cơ quan vừa thực thi quản lý nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh nhưng cũng đồng thời thực thi hoạt động tố tụng điều tra, xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh.

Một trong những nội dung đáng chú ý, Luật Cạnh tranh 2018 cũng thay đổi cách tiếp cận đối với vấn đế tập trung kinh tế khi bãi bỏ  hành vi tập trung kinh tế ra khỏi khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh và thừa nhận tập trung kinh tế là quyền của doanh nghiệp. Do đó, luật không cấm tập trung kinh tế dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan như quy định tại Luật Cạnh tranh 2004. Ngược lại, Luật Cạnh tranh 2018 chỉ quy định cấm doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế khi hành vi tập trung  kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Thị phần chỉ là một trong các yếu tố được xem xét khi quyết định đồng ý hay không đồng ý một vụ việc tập trung kinh tế. Ủy ban Cạnh tranh quốc gia chịu trách nhiệm đánh giá hành vi tập trung kinh tế dựa theo các tiêu chí quy định tại Điều 31, 32 Luật Cạnh tranh 2018. Tác động tiêu cực vá tích cực đồng thời được đưa ra đánh giá. Nếu vụ việc chỉ có tác động tích cực thì không cản trở. Nếu có cả tác động tích cực lẫn tiêu cực thì Ủy ban có thể vẫn cho phép tiến hành tập trung kinh tế, nhưng kèm theo một số điều kiện để hạn chế tác động tiêu cực. Đây là cách tiếp cận hoàn toàn mới so với quy định của Luật Cạnh tranh 2004 cấm toàn bộ tập trung kinh tế dựa trên thị phần.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 24 Luật Cạnhtranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật Cạnh tranh 2018 hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Trước đây với  Luật Cạnh tranh 2004, khi xác định vị trí của một doanh nghiệp trên thị trường có phải là doanh  nghiệp có vị trí thống lĩnh hay không thì chỉ dựa vào tiêu chí thị phần trên thị trường chiếm trên 30%. Thực tế rất nhiều doanh nghiệp trên thị trường có thị phần chưa tới 30% nhưng vẫn có một sức mạnh thị trường đáng kể và vẫn có thể can thiệp vào thị trường dưới nhiều hình thức. Do đó Luật Cạnh tranh 2018 đã bổ sung thêm yếu tố khác ngoài yếu tố thị phần để xác định doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường, kể cả những doanh nghiệp có thị phần dưới 30% thì cơ quan cạnh tranh sẽ đánh giá xem rằng liệu doanh nghiệp có vị trí sức mạnh thị trường hay không. Pháp luật không cấm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay thậm chí là vị trí độc quyền. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp lạm dụng vị trí đó để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành manh thì hành vi đó sẽ bị cấm. Chính vì vậy việc xác định vị trí của doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp như thế nào trên thị trường là điều kiện tiên quyết để xem xét các hành vi cạnh tranh của họ có bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền bị cấm hay không.

 Thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài

Liên hệ ANT Lawyers để yêu cầu dịch vụ

VP TP. HCM: hcmc@antlawyers.com.  Tel: (028) 730 86 529

VP Hà Nội: hanoi@antlawyers.com.  Tel: (024) 730 86 529

VP Đà Nẵng: danang@antlawyers.com. Tel: (0236) 7300 529


Thứ Tư, 18 tháng 11, 2020

Giải quyết tranh chấp phân chia tài sản chung của vợ chồng sau khi Ly hôn

  Quan hệ hôn nhân và gia đình là một quan hệ pháp luật đặc biệt, tồn tại trong đó vừa là quan hệ tài sản vừa là quan hệ nhân thân, tình cảm. Khi xảy ra vấn đề tranh chấp, quan hệ hôn nhân và gia đình luôn là những tranh chấp phức tạp. Trong phạm vi bài viết này người viết bàn về tranh chấp tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.

Thời điểm phát sinh tranh chấp, xác định loại quan hệ và luật áp dụng.

Quan hệ hôn nhân và gia đình luôn bao gồm các quan hệ: quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con, quan hệ tài sản chung của vợ chồng. Thông thường khi giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình, Tòa án thường giải quyết cả ba quan hệ nói trên. Tuy nhiên, quan hệ hôn nhân và gia đình về bản chất cũng là một quan hệ dân sự, Tòa án chỉ giải quyết khi có yêu cầu của đương sự và tuyệt đối không giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự. Có những trường hợp, vợ, chồng chỉ yêu cầu giải quyết một hoặc hai trong ba quan hệ nêu trên. Quan hệ tài sản thường được các đương sự giải quyết sau cùng sau khi đã có bản án/quyết định về việc ly hôn. Việc tranh chấp tài sản chung sau đó được các đương sự khởi kiện thành một vụ án riêng.



Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, tranh chấp tài sản saukhi ly hôn được xếp vào loại việc tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Xuất phát từ việc tranh chấp tài sản chung khi quan hệ vợ chồng không còn tồn tại nữa nên pháp luật xác định đây là một quan hệ dân sự, tài sản được xác định là tài sản chung giữa các đồng chủ sở hữu, việc phân chia tài sản chung áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự về tài sản chung.

Đến Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã thay đổi quan điểm của nhà làm luật, xác định quan hệ tranh chấp phân chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn thuộc loại quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình, việc phân chia tài sản chung được áp dụng các nguyên tắc theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ). Đồng thời, BLTTDS 2015 cũng xác định tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa chuyên trách Tòa gia đình và người chưa thành niên.

Do đó, khi phát sinh quan hệ tranh chấp phân chia tài sản sau khi ly hôn Tòa án phải xác định vụ án thuộc loại tranh chấp hôn nhân và gia đình, áp dụng nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng quy định tại Luật HNGĐ, không được coi là tranh chấp dân sự.

2. Một số vấn đề khi giải quyết tranh chấp phân chia tài sản sau khi ly hôn.

Tài sản là bất động sản nhưng chỉ đứng tên một người.

Theo quy định chung của pháp luật, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử thì trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu/quyền sử dụng (GCN) phải có tên tất cả các đồng chủ sở hữu. Đối với tài sản chung của vợ chồng cũng vậy, GCN phải có tên cả vợ và chồng. Tuy nhiên trên thực tế xảy ra rất nhiều trường hợp GCN chỉ đứng tên vợ hoặc đứng tên chồng vì nhiều lý do. Khi xảy ra tranh chấp sẽ rất phức tạp, bởi bên có tên trên GCN cho rằng đó là tài sản riêng mà không phải là tài sản chung.

Để giải quyết tranh chấp, chúng ta phải quan tâm đến các vấn đề sau

Thời điểm hình thành tài sản: theo quy định của Luật HNGĐ, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác về chế độ tài sản chung, các tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng hợp pháp, được tính từ thời điểm đăng ký kết hôn cho đến thời điểm chấm dứt hôn nhân.

Như vậy, nếu bất động sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân luôn được coi là tài sản chung của vợ chồng ngay cả khi chỉ đứng tên một người. Trường hợp bất động sản được tạo lập trước hoặc sau thời kỳ hôn nhân và chỉ đứng tên một người thì được xác định là tài sản riêng của người đó.

Nguồn gốc của việc hình thành tài sản: tức là đi tìm nguồn gốc của số tiền dùng để mua bất động sản. Luật HNGĐ xác định “tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ/chồng là tài sản riêng của vợ/chồng”. Nghĩa là, vợ/chồng sử dụng tiền là tài sản riêng của mình để mua tài sản trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được mua đó được coi là tài sản của người vợ/chồng mà không được coi là tài sản chung được hình thành trong thời kỳ hôn nhân.

Nếu bất động sản được vợ/chồng mua bằng tài sản riêng của mình, chỉ đứng tên của người đó, thì được xác định là tài sản riêng. Tuy nhiên việc chứng minh là tài sản riêng sẽ gặp rất nhiều khó khăn bởi tiền là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu và rất khó xác định thời điểm hình thành.

Luật HNGĐ xác định: “trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ/chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”. Khi một bên vợ/chồng cho rằng tài sản đang đứng tên mình là tài sản riêng của mình thì người đó có nghĩa vụ chứng minh, người yêu cầu xác định là tài sản chung không bắt buộc phải chứng minh. Nếu không chứng minh được là tài sản riêng, thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Tài sản của vợ/chồng được thừa kế theo pháp luật.

Trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc người chồng là người thuộc hàng thừa kế và được chia di sản theo pháp luật. Sau đó, người vợ/chồng được hưởng thừa kế mặc dù không có văn bản thỏa thuận sáp nhật tài sản được thừa kế vào khối tài sản chung nhưng cả hai vợ chồng đều cùng nhau sử dụng. Khi phát sinh tranh chấp, một bên cho rằng đó là tài sản chung và yêu cầu được chia tài sản.

Luật HNGĐ xác định, việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, việc cùng sử dụng tài sản không có ý nghĩa chứng minh tài sản chung.

Thừa kế theo pháp luật luôn là thừa kế riêng của người vợ/chồng nằm trong hàng thừa kế, tài sản đươc thừa kế theo pháp luật luôn là tài sản riêng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Do vậy, tài sản có tranh chấp phải được xác định là tài sản riêng của người được thừa kế.


Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

SỞ HỮU TRÍ TUỆ

 ANT Lawyers tập hợp các chuyên gia về sở hữu trí tuệ, tư vấn, và cung cấp các dịch vụ pháp lý giúp khách hàng bảo vệ quyền và khai thác lợi ích hợp pháp từ các tài sản trí tuệ.

Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Trong thời kỳ hội nhập, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), việc các tổ chức hay cá nhân đăng ký để được Nhà nước và pháp luật bảo vệ tài sản trí tuệ, tài sản vô hình  của mình là rất quan trọng và cần thiết.

Không chỉ hoạt động độc lập trong nước với tư cách một đơn vị tư vấn dịch vụ sở hữu trí tuệ chuyên nghiệp, ANT Lawyers có một hệ thống quan hệ hợp tác chặt chẽ với rất nhiều văn phòng luật, các Đại diện sở hữu trí tuệ có tên tuổi và uy tín ở nhiều nước trên thế giới, có điều kiện tốt để cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tư vấn trọn gói từ các hoạt động xác lập các quyền SHTT tại Việt Nam và các quốc gia khác, cho tới các hoạt động giám sát và thực thi quyền SHTT tại các quốc gia mà quyền sở hữu trí tuệ đã được xác lập.



Các chuyên môn chính của công ty luật ANT Lawyers bao gồm:

Tư  vấn bảo hộ Nhãn hiệu hàng hoá, Kiểu dáng công nghiệp, Sáng chế/Giải pháp hữu ích

Tra cứu, tư vấn về khả năng đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế/giải pháp hữu ích;

Sửa đổi, chuyển nhượng, gia hạn giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu;

Tư vấn, đại diện khách hàng thực hiện các biện pháp bảo hộ nhãn hiệu; sáng chế, giải pháp hữu ích và kiểu dáng công nghiệp

Tư vấn và hỗ trợ khách hàng xây dựng chiến lược phát triển nhãn hiệu, thương hiệu;

Tư vấn và hỗ trợ khách hàng thực hiện các chiến dịch quảng bá, khuyếch trương nhãn hiệu/thương hiệu;

Đại diện khách hàng thực hiện các thủ tục đăng ký tại Việt Nam, và các quốc gia khác;

Tư vấn bảo hộ Quyền tác giả:

Tư vấn chung về luật bản quyền;

Đăng ký bản quyền tác giả;

Tư vấn và thực hiện các thủ tục chuyển nhượng/chuyển giao bản quyền;

Khiếu nại, khởi kiện các vi phạm về bản quyền;

Tư vấn Li-xăng/chuyển nhượng quyền Sở hữu trí tuệ

Tư vấn chuyển giao quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu các đối tượng SHTT đã được bảo hộ tại Việt Nam

Đại diện khách hàng thực hiện thủ tục phê chuẩn, đăng ký Li-xăng và chuyển giao công nghệ

Đại diện hoặc hỗ trợ khách hàng đàm phán hợp đồng chuyển giao;

Tư vấn khiếu nại, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về Sở hữu trí tuệ

Đại diện khách hàng nộp đơn khiếu nại, yêu cầu hủy bỏ văn bằng hoặc các biện pháp khác nhằm giải quyết tranh chấp về Sở hữu trí tuệ;

Theo dõi và giám sát quá trình giải quyết tranh chấp về Sở hữu trí tuệ;

Ðiều tra và giải quyết các vi phạm về sở hữu trí tuệ

Giám sát nhằm phát hiện và khiếu nại hiện tượng bên vi phạm tìm cách hợp thức hóa các vi phạm SHTT;

Giám sát thị trường để phát hiện hàng giả và các vi phạm khác về SHTT;

Điều tra thông tin về các chủ thể vi phạm và hoạt động xâm phạm của họ;

Xử lý vi phạm, khiếu nại và khiếu kiện trước cơ quan có thẩm quyền/Tòa án nhằm bảo vệ quyền SHTT;

Tư vấn, hỗ trợ khách hàng tuyên truyền phòng chống và cảnh báo về vi phạm quyền SHTT;

Các Dịch vụ SHTT khác

Tìm kiếm đối tác có nhu cầu mua, bán, li-xăng sáng chế, nhãn hiệu…

Nghiên cứu, đánh giá và phân tích sáng chế, công nghệ;

Các khách hàng tiêu biểu của ANT Lawyers bao gồm các ngành sản xuất vật liệu xây dựng: Grasscrete (Anh), Buildersmart (Thái Lan), công nghệ nhà máy điện hạt nhân: AKME Engineering (Nga), may mặc và thời trang: Mondo (Thổ Nhĩ Kỳ), môi trường và xử lý nước thải: Anna (Hung ga ry), phân phối máy công nghiệp: Teral (Nhật), dịch vụ pháp lý: Verity Law (Úc), dược phẩm: Nephrex (Mê xi cô), bản quyền tác giả: Michel Desmarquet (Úc, tác giả cuốn sách Bị bắt cóc lên hành tinh tầng thứ 9, tên tiếng Anh Thiaoouba, cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiểu thứ tiếng)…

Liên hệ với ANT Lawyers qua hòm thư luatsu@antlawyers.com hoặc điện thoại văn phòng để được tư vấn.


Thứ Hai, 16 tháng 11, 2020

Xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu

 Theo quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam, khi phát hiện hành vi xâm phạm nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền thực hiện quyền tự bảo vệ bao gồm (i) áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; (ii) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; (iii) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định pháp luật.



Thứ nhất, đối với biện pháp áp dụng các biện pháp công nghệ, bên bị vi phạm có thể đưa các thông tin về chỉ dẫn về căn cứ phát sinh, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, phạm vi bảo hộ, thời hạn bảo hộ và các thông tin khác liên quan đến quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu nhằm thông báo rằng nhãn hiệu là đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ đang được bảo hộ và khuyến cáo người khác không được xâm phạm. Ngoài ra, chủ sở hữu nhãn hiệu bị xâm phạm cũng có thể sử dụng các phương tiện hoặc biện pháp kỹ thuật nhằm đánh dấu, nhận biết, phân biệt và bảo vệ nhãn hiệu đang được bảo hộ.

Thứ hai, biện pháp yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại. Cụ thể, chủ sở hữu nhãn hiệu bị xâm phạm có thể tự mình hoặc ủy quyền cho cá nhân hoặc tổ chức đại diện gửi văn bản tới bên xâm phạm yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm bằng việc chỉ rõ căn cứ phát sinh hành vi xâm phạm, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, phạm vi, thời hạn bảo hộ và phải ấn định một thời hạn hợp lý đề bên xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm. Ngoài ra, tùy vào từng trường hợp và mức độ xâm phạm mà văn bản yêu cầu sẽ có những nội dung khác nhau. Có thể nói đây là biện pháp mà bên bị xâm phạm nên sử dụng đầu tiên trước khi thực hiện các biện pháp khác, kể cả áp dụng các biện pháp công nghệ bởi lẽ nếu bên xâm phạm hợp tác và dừng hành vi xâm phạm sẽ tránh mất thời gian và tiền bạc của các bên khi không phải thực hiện các biện pháp mạnh hơn.

Thứ ba, biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định pháp luật. Khi chủ sở hữu nhãn hiệu đã gửi văn bản tới bên xâm phạm nhưng họ không hợp tác và vẫn tiếp diễn hành vi xâm phạm, bên bị xâm phạm có thể gửi đơn yêu xử lý xâm phạm tới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với những nội dung chủ yếu như: ngày, tháng, năm làm đơn yêu cầu; tên, địa chỉ của người yêu cầu hoặc người đại diện của người yêu cầu; tên cơ quan nhận đơn; tên, địa chỉ của người xâm phạm; tên, địa chỉ của người bị nghi ngờ là người xâm phạm trong trường hợp yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm; thông tin tóm tắt về nhãn hiệu bị xâm phạm và tóm tắt hành vi xâm phạm; nội dung yêu cầu áp dụng biện pháp xử lý xâm phạm; danh mục các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn. Tùy vào từng mức độ xâm phạm và người yêu cầu có thể gửi đơn yêu cầu tới các cơ quan liên quan để áp dụng các biện pháp hành chính, dân sự, hình sự hoặc cơ quan hải quan. Riêng đối với trường hợp đơn yêu cầu gửi đến cơ quan hải quan nhằm đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm thì cần có thêm thông tin về cách thức xuất khẩu, nhập khẩu, nước xuất khẩu, cách thức đóng gói, người xuất khẩu, nhập khẩu hợp pháp, đặc điểm phân biệt hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hợp pháp với hàng hoá xâm phạm.


Doanh nghiệp phải công bố thông tin gì khi thành lập?

 Quy định về công bốthông tin doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014, Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp và được sửa đổi bởi Nghị định 108/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp.

Doanh nghiệp sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp theo trình tự, thủ tục và phải trả phí theo quy định. Việc đề nghị công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp là thủ tục bắt buộc, được thực hiện tại thời điểm doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Thông tin công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp được đăng tải trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Nội dung công bố bao gồm các nội dung trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và ngành, nghề kinh doanh. Ngoài ra, đối với công ty cổ phần có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài, cần công bố danh sách cổ đông sáng lập và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài. Trường hợp thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, những thay đổi tương ứng phải được thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.



 

Quy định về hình thức, thời gian và nội dung công bố khác so với quy định tại Luật doanh nghiệp 2005, cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Doanh nghiệp 2005, trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải công bố thông tin với một trong các hình thức đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp. Nội dung công bố chủ yếu gồm: Tên doanh nghiệp; Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện; Ngành, nghề kinh doanh; Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; số cổ phần và giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần được quyền phát hành đối với công ty cổ phần; vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư nhân; vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định; Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của chủ sở hữu, của thành viên hoặc cổ đông sáng lập;  Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; Nơi đăng ký kinh doanh.

Đối với phí công bố, theo quy định tại Thông tư 47/2019/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin doanh nghiệp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/9/2019, lệ phí đăng ký doanh nghiệp, phí công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp là 100.000 đồng/lần , thay vì mức thu 300.000 đồng/lần như quy định tại Thông tư 215/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin doanh nghiệp, lệ phí đăng ký doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, có một số doanh nghiệp không cần thực hiện công bố thông tin doanh nghiệp trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp trước khi đi vào hoạt động mà thực hiện công bố thông tin bằng hình thức khác. Chẳng hạn, đối với tổ chức hành nghề luật sư, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư phải đăng báo hằng ngày của trung ương hoặc địa phương nơi đăng ký hoạt động hoặc báo chuyên ngành luật trong ba số liên tiếp. Đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng, phải công bố trên phương tiện thông tin của Ngân hàng Nhà nước và trên một tờ báo viết hằng ngày trong ba số liên tiếp hoặc báo điện tử của Việt Nam ít nhất ba mươi ngày trước ngày dự kiến khai trương hoạt động.

 Ngoài công bốthông tin doanh nghiệp, còn có thủ tục công bố thông tin trên thị trường chứng khoán được áp dụng đối với công ty đại chúng, tổ chức phát hành trái phiếu (ngoại trừ tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương), công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam, quỹ đại chúng. Các công ty, tổ chức này phải thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán tại Luật chứng khoán quy định chi tiết về công bố thông tin, công bố trên trang thông tin điện tử (website) của công ty và hệ thống công bố thông tin của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Trên đây là quy định pháp luật về công bố thông tin doanh nghiệp, doanh nghiệp cần chú ý để thực hiện theo đúng quy định pháp luật trước khi đi vào hoạt động chính thức.

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2020

Nghĩa vụ sử dụng sáng chế và nhãn hiệu

 Khi một sáng chế hay nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ, đồng nghĩa với việc chủ sở hữu phải có nghĩa vụ sử dụng các chủ thể này bởi lẽ trên thực tế có thể có trường hợp một người đăng ký sáng chế hay nhãn hiệu và được cấp bằng nhưng không sử dụng trên thực tế hoặc cố tình không sử dụng trên thực tế. Việc này sẽ gây ra ảnh hưởng tới các chủ thể có sáng chế và nhãn hiệu sử dụng trên thực tế nhưng không đăng ký được vì đã bị chủ thể khác đăng ký trước đó.

Theo đó, tại Điều 136 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành quy định rất cụ thể về nghĩa vụ sử dụng sáng chế và nhãn hiệu của chủ sở hữu.

Thứ nhất, đối với sáng chế, chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ sản xuất sản phẩm được bảo hộ hoặc áp dụng quy trình được bảo hộ để đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho Nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết của xã hội. Khi có các nhu cầu như nêu trên mà chủ sở hữu không thực hiện nghĩa vụ đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác mà không cần được phép của chủ sở hữu sáng chế theo quy định pháp luật.



Thứ hai, đối với nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực. Cụ thể, nếu nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực

Nếu quý khách cần thêm bất cứ thông tin hoặc có yêu cầu tư vấn liên quan đến sở hữu trí tuệ có thể liên lạc trực tiếp tới Công ty Luật ANT, bộ phận tư vấn sở hữu trí tuệ để được hỗ trợ.